Học thuyết âm dương-ngũ hành ứng dụng trong y học
1. Học thuyết âm dương
1.1. Đại cương
1.1.1. Lịch sử
Âm dương là một cặp phạm trù trọng yếu của triết học cổ đại. Khái niệm về âm dương có từ rất sớm, nhưng viết thành sách “ Hoàng đế nội kinh “ là ở giữa thời Chiến quốc – Tần Hán, kết hợp học thuyết âm dương với y học để hình thành học thuyết âm dương trong y học.
1.1.2. Khái niệm cơ bản của âm dương
Âm dương phải được xem xét trong một thể thống nhất, đối lập và liên hệ với nhau. Ví như trời – đất, trời ở trên là dương, đất ở dưới là âm, nếu không có trời thì cũng không có đất.
– Phương pháp phân thuộc tính âm dương
+ Dương: trên, ngoài, sáng, mùa xuân hạ, ôn nhiệt, can táo, nhẹ, thượng thăng, động, hưng phấn.
+ Âm: dưới, trong, tối, mùa thu đông, hàn lương, thấp nhuận, nặng, hạ giáng, tĩnh, ức chế.
1.2. Quy luật cơ bản của học thuyết âm dương
1.2.1: Âm dương đối lập
Hai mặt âm dương của sự vật – hiện tượng trong giới tự nhiên về tính chất là hoàn toàn tương phản.
– Ví dụ: Như là trời đất, trong ngoài, động tĩnh… cho thấy âm dương là tương hỗ đối lập, không thể phân cách được, tồn tại phổ biến trong các sự vật hiện tượng.
1.2.2: Âm dương hỗ căn
– Hai mặt âm dương là tương hỗ đối lập, là tương hỗ tồn tại, bất kỳ một sự vật hiện tượng nào đó đều không thể tách khỏi sự vật hiện tượng khác để độc lập tồn tại, vì tồn tại trong phương diện này lại là tiền đề cho tồn tại của phương diện khác.
– Ví như nóng là dương, lạnh là âm, không có nóng thì không có lạnh.Ví dụ nhiệt độ của nước là 300c và 15oc, tương đối mà nói, 30oc là nóng thuộc dương, 15oc là mát thuộc âm. Nhưng 15oc-4oc tương đối mà nói, 15oc là nóng thuộc dương, 4oc là mát thuộc âm. Như vậy 15oc có nóng mát âm dương, nên âm dương hai mặt mang tính không thể phân chia.
1.2.3. Âm dương tiêu trưởng
Âm dương không phải là trạng thái tĩnh tại mà là trạng thái vận động biên hoá: “âm tiêu dương trưởng“, hoặc “ dương tiêu âm trưởng”, trong một hạn độ – thời gian nhất định luôn duy trì động thái bình hằng tương đối.
– Ví như:
Khí hậu từ đông đến xuân hạ:
Khí âm hàn dần dần tiêu thoái
Khí dương nhiệt dần dần tăng trưởng âm tiêu dương trưởng
Khí hậu từ hạ đến thu đông:
Khí dương nhiệt dần dần tiêu thoái
Khí âm hàn dần dần tăng trưởng dương tiêu âm trưởng
1.2.4. Âm dương chuyển hoá
– Âm dương đối lập trong một điều kiện nhất định có thể tương hỗ chuyển hoá: âm chuyển thành dương, dương chuyển thành âm.
– Âm dương phát triển đến một trình độ nhất định nhất định nào đó, YHCT gọi là “ cực “
Ví như: “ nhiệt cực sinh hàn “, “ hàn cực sinh nhiệt “, thì sẽ phát sinh chuyển hoá.
1.3. ứng dụng học thuyết âm dương trong y học
1.3.1. Về cấu tạo tổ chức cơ thể
– Dương: biểu, trên, lưng, mặt ngoài tứ chi, bì mao, lục phủ, kinh dương ở chân và tay, khí.
– Âm: lý, dưới, bụng, mặt trong tứ chi, cân cốt, ngũ tạng, kinh âm ở tay và chân.
Trong các phần đó lại có thể phân chia nhỏ nữa. Ví như ngũ tạng, tâm phế ở trên thuộc dương, can tỳ thận ở dưới thuộc âm. Mỗi tạng lại có thể phân nhỏ nữa: tâm có tâm âm , tâm dương…
1.3.2. Về thay đổi bệnh lý
– Khái quát nhân tố gây bệnh: nhân tố gây bệnh phân thành 2 loại lớn là âm tà và dương tà. Ví như trong lục dâm gây bệnh thì phong, nhiệt, thử, táo thuộc về dương tà; hàn, thấp thuộc về âm tà.
– Khái quát quy luật diễn biến bệnh: trạng thái sinh lý là kết quả của âm dương duy trì được động thái cân bằng. Nếu quá trình đó bị phá vỡ sẽ xuất hiện biến hoá thiên thịnh thiên suy, tức là phát sinh bệnh tật.
+ Âm dương thiên thịnh: tức là âm thịnh hoặc dương thịnh.
Dương thịnh gây chứng thực nhiệt: sốt cao, khát, ra mồ hôi, chất lưỡi hồng, rêu lưỡi vàng, mạch sác.
Âm thịnh gây chứng thực hàn: chân tay lạnh, đau bụng, đại tiện lỏng, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm.
Cả hai loại trên đều do tà khí thịnh gây nên, phần lớn là thực chứng.
+ Âm dương thiên suy:
Dương hư là dương khí của cơ thể hư yếu (chứng hư hàn): sắc mặt trắng, sợ lạnh, chân tay lạnh, tự ra mồ hôi, mạch vi.
Âm hư là âm dịch của cơ thể không đầy đủ (chứng hư nhiệt): sốt từng cơn, ra mồ hôi trộm, lòng bàn chân tay nóng, miệng lưỡi khô, mạch vi sác.
+ Âm dương cùng tổn thương: do ở âm dương hỗ căn, vì thế khi một trong hai mặt bị hư thì cũng kéo theo phần kia bất túc. Dương hư đến một trình độ nào đấy, không thể hoá sinh âm dịch sinh ra âm hư; đồng thời âm hư đến trình độ nào đó, không hoá sinh dương khí sinh ra dương hư. Cuối cùng gây nên trạng thái bệnh lý âm dương lưỡng hư.
+ Âm dương ly tán: dựa trên nguyên lý âm dương hỗ căn, khi một mặt hao tổn đến cực điểm mà tiêu mất thì mặt kia cũng theo đó mà tiêu vong.
Vong âm gây dương thoát, vong dương gây nên âm kiệt: đều gây nên âm dương ly quyết.
1.3.3. Về chẩn đoán bệnh tật
– Quy nạp các thuộc tính triệu chứng bệnh tật:
Chứng thuộc dương: sắc sáng, thanh âm to rõ, tiếng thở thô, phát sốt, miệng khát, tiện bí, mạch phù sác.
Chứng thuộc âm: sắc tối, thanh âm thấp bé, tiếng thở vô lực, sợ lạnh, miệng không khát, tiện lỏng, mạch trầm trì.
– Là tổng cương phân loại biện chứng:
Dương chứng: biểu- nhiệt- thực. Âm chứng: lý- hàn- hư.
1.3.4. Về điều trị tật bệnh
1.3.4.1. Xác định nguyên tắc điều trị
– Nguyên tắc điều trị âm dương thiên thắng:
Dương thắng thì âm bệnh: dương nhiệt thịnh làm hao tổn âm dịch, thuộc thực nhiệt chứng, điều trị dùng thuốc hàn lương để chế dương thịnh.
Âm thắng thì dương bệnh: âm hàn thịnh làm tổn thương dương khí, thuộc thực hàn chứng, điều trị dùng thuốc ôn nhiệt để chế âm hàn thịnh.
– Nguyên tắc điều trị âm dương thiên suy:
Âm hư không chế được dương gây chứng hư nhiệt, nói chung không nên dùng thuốc hàn lương để trị hư nhiệt mà nên dùng pháp tư âm tráng thuỷ để ức chế dương cang hoả thịnh.
Dương hư không chế âm gây nên chứng hư hàn, không nên dùng thuốc cay nóng phát tán để tán âm hàn mà dùng pháp trợ dương ích hoả để trừ âm hàn.
Tóm lại, nguyên tắc điều trị cơ bản là: hư bổ thực tả.
1.3.4.2 Quy nạp tính năng dược vật
– Dược tính (tứ khí): hàn, nhiệt, ôn, lương. Trong đó hàn lương thuộc âm, ôn nhiệt thuộc dương. Điều trị nhiệt chứng thường dùng thuốc hàn lương, điều trị hàn chứng thường dùng thuốc ôn nhiệt.
– Ngũ vị: chua, cay, ngọt, đắng, mặn. Trong đó cay, ngọt, mặn thuộc dương; chua, đắng thuộc âm.
– Thăng giáng phù trầm: thăng phù thuộc dương (thuốc có tính lên trên ra ngoài; có tác dụng thăng dương, ra mồ hôi, khứ phong tán hàn, khai khiếu…). Trầm giáng thuộc âm (thuốc có tính xuống dưới vào trong; có tác dụng tả hạ, thanh nhiệt, lợi niệu, trọng chấn an thần, bình can tức phong, tiêu đạo, giáng nghịch, thu liễm…).
2. Học thuyết ngũ hành
2.1. Khái niệm cơ bản của ngũ hành
– Ngũ hành là chỉ năm loại vật chất: mộc, hoả, thổ, kim, thuỷ.
– Khái niệm ngũ hành trong YHCT không phải biểu thị cho 5 loại hình thái vật chất đặc thù, mà là đại biểu cho 5 loại thuộc tính công năng, lấy quan điểm cấu tạo hệ thống để quan sát cơ thể con người, miêu tả đơn giản quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận trong cơ thể.
2.2. Nội dung cơ bản của học thuyết ngũ hành
2.2.1. Phân loại thuộc tính sự vật
– Đặc tính của ngũ hành:
+ Mộc: là hình thái sinh trưởng của cây (gỗ), đặc tính hướng lên trên, hướng ra ngoài. Sự vật có tính chất – tác dụng sinh trưởng, thăng phát, thông thoát đều thuộc mộc.
+ Hoả: là sức nóng của lửa, đặc tính đưa lên trên. Sự vật có tác dụng bốc lên trên, ôn nhiệt đều thuộc hoả
+ Thổ: là đất. Sự vật có tác dụng hoá sinh, truyền tải, thu nạp đều thuộc thổ.
+ Kim: là kim loại. Sự vật có tác dụng thanh khiết, đưa xuống dưới, thu liễm đều thuộc kim.
+ Thuỷ: là nước, đặc tính tư nhuận, hướng xuống dưới. Sự vật có tính hàn lương, tư nhuận, hướng xuống dưới vận hành đều thuộc thuỷ.
– Quy loại thuộc tính trong ngũ hành:
2.2.2. Quy luật của ngũ hành
– Quy luật sinh – khắc
Là quy luật bình thường trong sự vận động biến hoá của sự vật, ở cơ thể con người là các hiện tượng sinh lý.
Mỗi một hành đều có quan hệ mẹ – con: mộc sinh hoả thì mộc là mẹ, hoả là con. Cho nên quan hệ tương sinh còn gọi là quan hệ phụ – tử.
– Quy luật vũ – thừa
Khi quan hệ sinh khắc bị phá vỡ thì sẽ xuất hiện quy luật vũ thừa.
+ Quy luật tương thừa: tức là tương khắc quá mạnh, vượt khỏi sự khắc chế bình thường.
Quy luật tương thừa có hai tình huống:
Mộc nhân lúc thổ hư mà khắc (vượt khỏi quan hệ chế ước bình thường) làm mất đi trạng thái cân bằng vốn có làm cho thổ càng hư nhược.
Mộc quá mạnh làm mất trạng thái chế ước bình thường vốn có, sinh ra hiện tượng mộc cang thịnh thừa thổ.
+ Quy luật tương vũ: là hiện tượng 1 hành nào đó quá mạnh làm cho hành vốn khắc nó không thể khắc chế được mà ngược lại bị nó quay lại khắc chế, gọi là phản khắc.
Quy luật tương vũ có hai hiện tượng:
Khi mộc quá suy yếu không thể khắc thổ nên thổ nhân khi mộc hư mà phản vũ lại.
Khi mộc quá mạnh, kim không khắc chế mộc, bị mộc khắc chế lại.
3. ứng dụng trong YHCT
3.1. Về công năng sinh lý của tạng phủ
– Quan hệ sinh lý của tạng phủ trong tương sinh:
+ Can mộc sinh tâm hoả: công năng can tàng huyết bình thường sẽ giúp cho tâm phát huy được công năng chủ huyết mạch.
+ Tâm hoả sinh tỳ thổ: chức năng tâm chủ huyết mạch bình thường, huyết nuôi dưỡng tỳ thì tỳ mới chủ vận hoá, sinh huyết, thống huyết…
– Quan hệ tương hỗ chế ước tạng phủ trong tương khắc:
+Thận thuỷ chế ước tâm hoả: ngăn ngừa tâm hoả cang thịnh.
+ Phế kim khắc can mộc: phế khí thanh túc để ức chế can dương thượng cang…
3.2. Diễn biến bệnh
3.3.1. Truyền biến của quan hệ tương sinh:
– Mẫu bệnh cập tử: thận thuỷ sinh can mộc thì thận là mẫu tạng, can là tử tạng, bệnh thận ảnh hưởng đến can. Lâm sàng hay gặp chứng can thận tinh huyết bất túc: đầu tiên là thận tinh bất túc, ảnh hưởng đến can làm can huyết bất túc.
– Tử bệnh phạm mẫu: can mộc sinh tâm hoả, tâm bệnh ảnh hưởng đến can.Lâm sàng gặp chứng tâm can huyết hư: do tâm huyết bất túc mà gây nên can huyết bất túc.
3.3.2. Truyền biến của quan hệ tương khắc:
– Tương thừa: tương khắc thái quá thành bệnh.Như can mộc khắc tỳ thổ quá mạnh sẽ thành bệnh: đầu tiên là chứng bệnh của can, do can sơ tiết thái quá ảnh hưởng đến tỳ vị làm rối loạn công năng tiêu hoá.
– Tương vũ: Phế kim vốn dĩ khắc can mộc, nhưng do can mộc quá mạnh phản vũ lại phế kim. Lâm sàng gặp đầu tiên bệnh ở can, do can hoả thiên thịnh, ảnh hưởng đến phế khí thanh túc nên xuất hiện đau tức ngực sườn, đắng miệng, dễ cáu, ho, có thể ho ra đờm lẫn máu…
3.3. Về chẩn đoán và điều trị
3.3.1. Chẩn đoán:
– Xác định vị trí bệnh: căn cứ vào biểu hiện của sắc, vị, mạch để mà chẩn đoán tạng bị bệnh. Ví như sắc mặt xanh, thích ăn đồ chua, mạch huyền thì có thể chẩn đoán can bệnh; mặt sắc đỏ, miệng đắng, mạch hồng có thể chẩn đoán tâm hỏa khang thịnh…
– Suy đoán truyền biến của bệnh từ thuộc tính chủ về sắc của tạng. Ví như bệnh nhân tỳ hư, sắc mặt đang từ mầu vàng, nếu thấy sắc xanh, là mộc thừa thổ; bệnh nhân tâm hoả cang thịnh, sắc đương đỏ, nếu thấy chuyển sắc đen, là thủy đã khắc hỏa…
3.3.2. Điều trị
– Khống chế truyền biến của bệnh: Nếu can khí thái quá, khắc tỳ thổ, phải kiện tỳ vị để phòng sự chuyển biến bệnh.
– Xác định nguyên tắc điều trị
+ Căn cứ quy luật tương sinh:
Hư thì bổ mẹ. Ví như thận âm bất túc không tư dưỡng can mộc gây nên can âm bất túc, gọi là thuỷ không sinh mộc. Khi điều trị không nên trực tiếp trị can mà nên bổ thận thuỷ để sinh can mộc.
Thực thì tả con. Như can hoả tích thịnh, chỉ thăng không giáng, gây chứng can thực hoả, khi điều trị nên tả tâm hoả để giúp tả can hoả.
+ Căn cứ quy luật tương khắc
ức cường: dùng khi tương khắc thái quá. Nếu can khí hoành nghịch, phạm vị khắc tỳ, gây nên can vị bất hoà, khi điều trị dùng pháp sơ can, bình can. Hoặc nếu tỳ thổ phản khắc can mộc, làm can khí mất điều đạt, phải dùng pháp kiện tỳ hoà vị để điều trị.
Phù nhược: dùng trong tương khắc bất cập. Nếu can hư uất trệ, ảnh hưởng tỳ vị vận hoá, gọi là mộc không sơ thổ, điều trị nên hoà can làm chủ, kiêm thi kiện tỳ để tăng cường công năng của cả hai tạng.
3.3.3. Sử dụng huốc
– Căn cứ vào vị và sắc của thuốc: vị chua và mầu xanh vào can; vị đắng và mầu đỏ vào tâm; vị ngọt và mầu vàng vào tỳ; vị cay và màu trắng vào phế; vị mặn và màu đen vào thận.
– Bào chế: sao với dấm đưa vị thuốc vào can; sao với muối đưa vị thuốc vào thận; sao với đường đưa vị thuốc vào tỳ….
4. Kết luận
Học thuyết âm dương và ngũ hành đều thuộc phạm trù trong pháp biện chứng duy vật cổ đại. Sau khi xâm nhập vào lĩnh vực YHCT đã trở thành một bộ phận trọng yếu của hệ thống lý luận y dược.
Trong quá trình đi sâu nghiên cứu về hoạt động sinh lý và thay đổi bệnh lý của tạng phủ, đòi hỏi phải có sự kết hợp âm dương và ngũ hành mới có thể nhận thức chính sác mối quan hệ tương hỗ giữa các tạng phủ.